Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam phê chuẩn gia nhập Công ước 98
Nghiên cứu - 16/11/2021 17:31 TS. Vũ Trung Kiên - Học viện Chính trị khu vực II
Gia nhập Công ước 98 khẳng định nỗ lực của Việt Nam, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong hội nhập quốc tế về lao động, xã hội. Trong ảnh: Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh trình bày Tờ trình về việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể, ngày 29/5/2019. Ảnh: L.K |
ILO và quá trình gia nhập của Việt Nam
Việt Nam tham gia ILO từ năm 1992. Năm 1998, ILO ra tuyên bố của tổ chức này. Tuyên bố năm 1998 của ILO được xem là một tuyên bố văn minh của nhân loại. Kể từ khi tham gia ILO đến nay, Việt Nam đã cố gắng trở thành một thành viên có trách nhiệm. Theo tuyên bố của ILO, NLĐ phải có tiếng nói trong các hiệp định quan trọng. Các quyền được đề cập trong Tuyên bố năm 1998 của ILO được quy định trong 8 Công ước cơ bản của ILO đó là: 1). Tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền TLTT (Công ước 87 và 98); 2). Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước 29 và 105); 3). Xóa bỏ lao động trẻ em (Công ước 138 và 182), và 4). Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước 100 và 111). Tất cả các quốc gia thành viên của ILO đều phải tôn trọng các quyền phổ quát này.
Với việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước 98, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn 6 trong 8 Công ước cơ bản của ILO (hiện còn 2 công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam chưa phê chuẩn là Công ước 87 liên quan đến quyền tự do liên kết và Công ước 105 liên quan đến loại bỏ lao động cưỡng bức…).
Ngày 5/7/2019, Việt Nam đã hoàn tất hồ sơ gia nhập. Theo quy định của ILO, Công ước này sẽ có hiệu lực sau một năm khi hoàn thiện hồ sơ phê chuẩn. Như vậy, kể từ ngày 5/7/2020, Công ước này chính thức có hiệu lực ở Việt Nam. Cho dù Việt Nam chưa phê chuẩn 2 Công ước 87 và 105 nhưng với tư cách là thành viên của ILO, ngoài việc thực hiện đầy đủ nội dung các công ước đã phê chuẩn, Việt Nam có nghĩa vụ "tôn trọng, thúc đẩy và hiện thực hóa một cách có thành ý" đối với các công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam chưa phê chuẩn.
Điều đó có nghĩa là dù chưa phê chuẩn Công ước 87 và Công ước 105 thì Việt Nam vẫn phải có nghĩa vụ thúc đẩy hiện thực hóa các công ước này.
Hội thảo công bố gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và tham vấn dự thảo Kế hoạch thực hiện Công ước số 98 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức ngày 6/7/2020 tại Hà Nội. |
Nội dung cơ bản của Công ước 98 và quá trình xây dựng pháp luật thống nhất của Việt Nam
Công ước 98 bao gồm 16 Điều. Điều 1, Công ước quy định: “1. NLĐ phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước những hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn trong việc làm của họ.
2. Sự bảo vệ đó phải được áp dụng trước hết đối với những hành vi nhằm:
a). Làm cho việc làm của NLĐ phụ thuộc vào điều kiện là người đó không được gia nhập công đoàn hoặc phải từ bỏ tư cách đoàn viên công đoàn;
b). Sa thải hoặc gây tổn hại cho NLĐ với lý do là đoàn viên công đoàn, hoặc tham gia các hoạt động công đoàn ngoài giờ làm việc hoặc với sự đồng ý của người sử dụng lao động (NSDLĐ) trong giờ làm việc”.
Để các quy định của pháp luật Việt Nam không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, Bộ luật Lao động (BLLĐ) 2019 đã có nhiều nội dung mới. Khoản 3, Điều 3, BLLĐ 2019 quy định về “Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở” là tổ chức “được thành lập trên cơ sở tự nguyện của NLĐ tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong quan hệ lao động thông qua TLTT hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở bao gồm CĐCS và tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp”.
Như vậy, cùng với tổ chức Công đoàn thuộc hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam, trong các doanh nghiệp, NLĐ sẽ có quyền gia nhập tổ chức đại diện quyền lợi cho mình không thuộc hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam. Như vậy, có thể thấy, khi phê chuẩn Công ước 98 cũng như ký kết và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam sẽ phải chấp nhận có một tổ chức đại diện cho NLĐ tại doanh nghiệp nằm ngoài hệ thống tổ chức của Tổng LĐLĐ Việt Nam.
Tổ chức Công đoàn luôn quan tâm, chăm lo đời sống, vật chất, tinh thần cho người lao động tại cơ sở. Trong ảnh: Cán bộ công đoàn TP. Hà Nội trao “Túi An sinh Công đoàn” cho người lao động Công ty Cổ phần Viha Thống Nhất. |
Cơ hội để tổ chức Công đoàn vươn lên
Đã xuất hiện những ý kiến lo lắng rằng đây sẽ là thách thức đối với CĐVN hiện nay bởi nếu tổ chức CĐVN hiện nay không bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của NLĐ thì sẽ tự mình đánh mất niềm tin nơi NLĐ. Khi đó, NLĐ vẫn có sự lựa chọn khác, tức tham gia tổ chức đại diện quyền lợi cho NLĐ được lập ra ở doanh nghiệp hoạt động song song với tổ chức Công đoàn thuộc hệ thống Tổng LĐLĐ Việt Nam.
Những lo lắng về việc các tổ chức đại diện NLĐ ở các doanh nghiệp không thuộc hệ thống công đoàn của Tổng LĐLĐ Việt Nam có thể bị chính trị hóa lợi dụng làm phương hại đến ổn định chính trị tại Việt Nam không phải không có cơ sở. Tuy nhiên lo lắng này có vẻ hơi thái quá. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 2013 đã có quy định cụ thể về CĐVN tại Điều 9 và Điều 10. Điều 10, Hiến pháp 2013 ghi rõ: “CĐVN là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN và của NLĐ được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho NLĐ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của NLĐ; tuyên truyền, vận động NLĐ học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều 1, Luật Công đoàn Việt Nam 2012 cũng ghi rõ: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN và của NLĐ, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những NLĐ khác (sau đây gọi chung là NLĐ), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động NLĐ học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN” (Luật Công đoàn Việt Nam sẽ được sửa đổi nhưng dự thảo vẫn giữ tinh thần chung căn bản của Điều này).
Việc gia nhập Công ước 98 là cơ hội cho tổ chức Công đoàn Việt Nam phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động. Trong ảnh: Công nhân Công ty TNHH Bluecom Vina (Khu công nghiệp Tràng Duệ, TP. Hải Phòng) trong dây chuyền sản xuất thiết bị điện thoại. Ảnh: D.N |
Có thể thấy, nếu một tổ chức đại diện quyền lợi của NLĐ được lập ra ở doanh nghiệp thì vẫn phải tuân thủ các quy trình thành lập theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Các tổ chức này, theo quy định là những tổ chức nghề nghiệp, không mang tính chính trị, không hoạt động chính trị. Khi những tổ chức đại diện NLĐ được lập ra sẽ phải đăng ký, phải có điều lệ hoạt động và được cơ quan thẩm quyền công nhận, cho phép hoạt động. Các tổ chức này chỉ được hoạt động trong khuôn khổ quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ; không cho phép các hoạt động ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Hiện, pháp luật lao động Việt Nam cũng không thừa nhận quyền tự do liên kết đối với NLĐ nước ngoài. Tuy nhiên, các cơ quan có trách nhiệm cũng cần tính tới các phương án, cần có những dự báo và các giải pháp để ngăn ngừa việc lợi dụng các quy định này để tổ chức chống đối hoặc gây rối…
Khi đã chấp nhận tham gia sâu rộng vào sân chơi toàn cầu, chắc chắn hệ thống công đoàn thuộc Tổng LĐLĐ Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng. Nếu công đoàn hoạt động thật sự có hiệu quả, mạnh dạn đấu tranh đòi hỏi và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của NLĐ, nói lên được tiếng nói của NLĐ thì ngay chính tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp - nếu có được lập ra - cũng sẽ gia nhập vào tổ chức Công đoàn thuộc hệ thống của Tổng LĐLĐ Việt Nam. Ngược lại, nếu công đoàn hoạt động hời hợt, không hiệu quả, không đấu tranh cho quyền lợi của NLĐ thì các tổ chức của NLĐ ra đời sẽ không gia nhập vào CĐVN mà tự liên kết lại để bảo vệ quyền lợi của NLĐ.
Như vậy, đây không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để tổ chức Công đoàn vươn lên, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực sự xứng đáng là tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong các doanh nghiệp. Tất nhiên, để đạt tới điều này, đòi hòi tổ chức Công đoàn phải hướng nhiều hơn vào việc đại diện và TLTT, thay vì thực hiện các chức năng chính yếu của tổ chức chính trị - xã hội như hoạt động lâu nay.
Một số vấn đề then chốt để xây chắc nền móng tổ chức Công đoàn Việt Nam Nhân dịp kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7 (1929 - 2021) và nhân dịp Bộ Chính trị Ban Chấp ... |
Hoạt động công đoàn khi Việt Nam tham gia Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới* Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là một số FTA thế ... |
Xây dựng giai cấp công nhân, Công đoàn Việt Nam vững mạnh Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình ... |
Tin cùng chuyên mục
Công đoàn - 19/09/2024 16:13
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng
Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu - 09/09/2024 13:38
Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Nghiên cứu - 21/06/2024 16:35
Tình đoàn kết tạo ra quyền lực cho tổ chức
Nhân Tháng Công nhân 2024, TS. Phạm Thị Thu Lan, nhà nghiên cứu quen biết về phong trào công nhân, hoạt động công đoàn (công tác tại Viện Công nhân và Công đoàn) có bài viết về tình đoàn kết và niềm tin của NLĐ, điều sẽ tạo ra quyền lực mềm cho tổ chức Công đoàn. Tạp chí LĐ&CĐ xin giới thiệu với bạn đọc phân tích thú vị và rất đáng suy ngẫm này.
Nghiên cứu - 28/05/2024 15:33
Bài 3: Xây dựng chính sách đồng bộ, hiệu quả cho người lao động tiếp cận, thụ hưởng
Hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm ở nước ta đã được chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhưng vấn đề tiếp cận, thụ hưởng chính sách của người lao động còn cần được cải thiện hơn nữa.
Nghiên cứu - 28/05/2024 14:54
Bài 2: Cơ sở xây dựng lực lượng lao động năng suất, tiến bộ
Cơ sở để bảo đảm việc làm, thu nhập, chăm lo đời sống, đáp ứng nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người lao động (NLĐ) xuất phát từ các tiền đề về tiền lương, phúc lợi về nhà ở, sức khỏe y tế, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, hỗ trợ chăm sóc con em.
Nghiên cứu - 28/05/2024 10:28
Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay
Với sự nỗ lực, tự học hỏi, rèn luyện, công nhân đã có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp khá cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.