Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (9/7/1912- 9/7/2022):

Những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ

Đảng với công nhân - QUỐC THẮNG

Điểm chung trong các công trình nghiên cứu về cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là đánh giá cao sự sắc sảo và nhạy bén trong tư duy lý luận chính trị.

Tuy chỉ viết hai tác phẩm Các quyền tự do dân chủ với Nhân dân Đông Dương (bút danh Trí Thành, xuất bản năm 1938), Tự chỉ trích (bút danh Trí Cường, xuất bản năm 1939) và một số bài báo nhưng những giá trị lý luận của các tác phẩm này có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.

Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (09/7/1912 - 09/7/2022), chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, ý nghĩa thời sự và vai trò của những luận điểm này đối với quá trình giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương V (tháng 3/1938) bầu làm Tổng Bí thư khi mới 26 tuổi, đồng chí Nguyễn Văn Cừ là một trường hợp đặc biệt. Chưa từng được học tập đào tạo ở nước ngoài như các Tổng Bí thư tiền nhiệm (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập) nhưng trên tinh thần đề cao vai trò của lý luận của Đảng ta và nhận thức được tầm quan trọng của lý luận trong sự nghiệp cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã không ngừng tìm tòi, học hỏi, phân tích, ứng dụng lý luận vào thực tiễn để đúc kết các luận điểm thiết thực.

Những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ (9/7/1912 - 28/8/1941). Ảnh tư liệu.

Lý luận đi từ thực tiễn

Đọc phần Biên niên sự kiện trong công trình Nguyễn Văn Cừ - Tiểu sử [1], chúng ta thấy, từ năm 1928 trở về sau, không sự kiện nào trong cuộc đời của đồng chí Nguyễn Văn Cừ không gắn liền với thực tiễn cách mạng, những luận điểm về lý luận đều gắn liền với các hoạt động cách mạng. Ngay khi còn đang học ở Trường Bưởi, ở tuổi 17, đồng chí đã tham gia hoạt động trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Quãng thời gian được tổ chức phân công đi “vô sản hoá” ở vùng mỏ Quảng Ninh chính là giai đoạn mở đầu cho quá trình dấn thân cách mạng của đồng chí.

Thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân mỏ vùng Đông Bắc đã hình thành tư duy lý luận về sức mạnh của giai cấp công nhân cho đồng chí. Từ đó, bằng các phương pháp lập luận chính trị sắc bén, đồng chí đã giác ngộ, vận động công nhân đứng lên làm cách mạng. Nhận thức được vai trò của lý luận trong cách mạng, lý luận là nền tảng và đồng thời là vũ khí đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thành lập Đặc khu uỷ mỏ, xuất bản Tờ báo Than. Bằng việc phát hành rộng rãi, những bài báo viết về thực tiễn đời sống của công nhân lao động kết hợp với lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã có tác dụng rất lớn trong việc cổ vũ, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.

Ngay từ thời điểm này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nhận thức được rằng: để có sức thuyết phục, lý luận phải đi từ thực tế; các luận điểm lý luận cách mạng phải được giản dị hóa bằng việc dẫn chứng các sự kiện cụ thể gắn liền với đời sống thường ngày, phù hợp với nhận thức của giai cấp công nhân. Đó là lý do vì sao, Báo Than được đông đảo công nhân chuyền tay nhau đọc. Không có phương pháp giác ngộ cách mạng nào hiệu quả bằng việc đi từ thực tiễn.

Những bài báo vạch trần thủ đoạn đàn áp, bóc lột của chủ mỏ, làm rõ nỗi khổ cực mà giai cấp công nhân phải chịu đựng… là cơ sở để kêu gọi họ đoàn kết đấu tranh. Nhưng đấu tranh sẽ không thành công nếu chúng ta chỉ thực hiện theo cách nhỏ lẻ, tự phát và thiển cận, tức chỉ nhắm vào quyền lợi đời sống thường nhật. Chỉ có đường hướng lý luận cách mạng mới nâng tầm được tinh thần kiên quyết đấu tranh: tự do của công nhân tức là tự do của giai cấp, giai cấp có tự do thì mới trở thành lực lượng nòng cốt cho công cuộc giải phóng dân tộc, đội ngũ trung thành, phát huy tốt năng lực dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Lý luận đi từ thực tiễn trong quan điểm của đồng chí Nguyễn Văn Cừ thực chất là đi từ giai cấp. Không chỉ nhận thức được vai trò quan trọng của công nhân trong đấu tranh cách mạng, đối với đồng chí, nếu biết khơi dậy ý thức giác ngộ, tinh thần cách mạng thì nông dân cũng trở thành lực lượng quan trọng cho cách mạng.

Chính vì thế, trong giai đoạn lãnh đạo công tác vận động quần chúng, phát động phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ để tiến tới thành lập Mặt trận dân chủ thống nhất giai đoạn 1936 -1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cũng hết sức chú ý tới phong trào nông dân. Trải nghiệm thực tế để tìm hiểu đời sống của nông dân, giúp đỡ họ nâng cao nhận thức tiến tới gây dựng và thành lập các cơ sở, chi bộ Đảng là phương pháp cơ bản trong công tác vận động quần chúng của đồng chí.

Trong giai đoạn này, các địa bàn gần Hà Nội có nhiều hình thức hoạt động ra đời được nông dân hưởng ứng như hội cấy, hội cày, hội hiếu, hội hỷ… là nhờ sự xông xáo, sáng tạo và quan điểm lý luận đi từ thực tiễn của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Quan điểm đó được thể hiện một cách toàn diện. Ngoài công nhân và nông dân, các đối tượng khác như phụ nữ và thanh niên cũng được đồng chí quan tâm trong công tác giác ngộ nhận thức cách mạng. Các nhóm phụ nữ tiểu thương, các tổ chức thanh niên, các nhóm nghiên cứu sách báo công khai, các hội ái hữu học sinh, … được đồng chí thành lập để tuyên truyền, phổ biến các quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chú trọng làm rõ mối liên hệ giữa thực tiễn với lý luận sát thực với từng đối tượng,…

Ngày 15/2/1931, trên đường đi công tác từ Cẩm Phả về Hòn Gai, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã bị địch bắt. Trải qua nhiều nhà lao, sống trong nhiều hoàn cảnh nhưng đồng chí Nguyễn Văn Cừ đều tìm cách thích nghi để học tập, nâng cao trình độ lý luận. Không còn được tiếp xúc với các tầng lớp, giai cấp để hoạt động, đồng chí thực hiện tinh thần “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”. Quan điểm thực tiễn trong lý luận cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ thể hiện rõ nét cả trong những năm tháng lao tù. Những thành quả đòi quyền lợi cho anh em tù nhân ở Côn Đảo, những phong trào học tập lý luận do đồng chí chủ trì tổ chức chứng minh cho điều đó.

Với đồng chí, giai đoạn lao tù là cơ hội để nghiền ngẫm lý luận và phải làm sao để những tù nhân ở đây trở thành một trong các lực lượng nòng cốt của cách mạng. Bởi vì, chính nhà tù đang là công cụ để giam hãm những cá nhân tiên tiến có đóng góp lớn cho sự phát triển của cách mạng. Những buổi diễn kịch, đọc chuyện với nội dung phê phán thói xấu trong xã hội do đồng chí tổ chức trong Nhà tù Côn Đảo thu hút sự tham gia của những tù nhân Quốc dân Đảng và Giám ngục Tây cho thấy đây là một con người luôn lăn xả vào thực tế, tranh thủ mọi hoàn cảnh để học tập, hoạt động. Đó là lý do vì sao các tác phẩm lý luận của đồng chí Nguyễn Văn Cừ luôn giản dị, dễ hiểu và thiết thực.

Đồng chí Nguyễn Văn Hoan, một bạn tù ở nhiều năm với đồng chí Nguyễn Văn Cừ ở Nhà tù Côn Đảo đã kể: “Anh Cừ có nhiều thực tiễn nên khi phân tích lý luận có thực tiễn chứng minh, làm sáng rõ vấn đề ngay và dễ thuyết phục người nghe” [2].

Những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Tác phẩm “Tự chỉ trích” do đồng chí Nguyễn Văn Cừ biên soạn sau cuộc tổng tuyển cử Hội đồng Quản hạt ở Nam kỳ, năm 1939. Ảnh tư liệu.

Lý luận gắn liền với thực tiễn

Dựa vào các sự kiện được liệt kê trong Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam [3] ở giai đoạn hoạt động của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, chúng ta thấy rõ vai trò của đồng chí trong phong trào cách mạng: các sự kiện trong biên niên tiểu sử của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đều gắn liền với các sự kiện của Đảng.

Những sáng kiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ trình bày tại Hội nghị Trung ương V, tháng 3/1938 nói rõ tinh thần lý luận gắn liền với thực tiễn. Từ sự phân tích mô hình “Mặt trận bình dân” của Cộng hòa Pháp, “Mặt trận dân tộc phản đế” của Trung Quốc trong quy chiếu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đề xuất thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương. Thực tế cho thấy, chính mô hình này không những đã đoàn kết được giai cấp công nhân, nông dân mà còn thu hút được đội ngũ trí thức và các lực lượng theo xu hướng cải cách dân chủ khác.

Trước đó, vào tháng 9/1937, Báo cáo Về công tác quần chúng trình bày tại Hội nghị Trung ương của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện tinh thần lý luận gắn liền với thực tiễn, rõ nhất là trong các luận điểm về phương pháp công tác mặt trận. “Phải khắc phục cái bệnh thiên về thợ thuyền và lao động,... mà quên hết cả các quyền lợi của các tầng lớp, các giai cấp khác, quyền lợi chung của dân tộc, phải hiểu rằng Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản thôi mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho cả toàn thể dân chúng nữa” [4].

Khi chiến tranh thế giới nổ ra, đồng chí chủ trương đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc, do đó cần thiết phải thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân và nông dân: "Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết" [5]. Lý luận cách mạng gắn liền với thực tiễn thể hiện rõ trong việc tạm gác lại khẩu hiệu ruộng đất nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi của nông dân trong giai đoạn này. Một đất nước nông nghiệp có 95% dân chúng là nông dân thì quyết sách này trở nên rất quan trọng cho sự thành công của cách mạng.

Quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ được thể hiện một cách chi tiết trong tác phẩm Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương xuất bản vào năm 1938. Là người ham đọc sách, không ngừng học hỏi các mô hình tổ chức hoạt động cách mạng, ứng dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn nhưng đồng chí Nguyễn Văn Cừ không sa vào lý luận hay ứng dụng cứng nhắc các mô hình đi trước. Đối với đồng chí, nhiệm vụ cốt lõi của lực lượng cách mạng là học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị nhưng lý luận phải gắn liền với thực tiễn cách mạng.

Lý luận xa rời thực tiễn cách mạng là lý luận suông. Với tình hình cách mạng những năm 1936 - 1939 đặc thù ở nước ta, để hình thành được một mô hình tổ chức phù hợp, người lãnh đạo cần xem xét một loạt các yếu tố như: tình hình, xu hướng chính trị của thế giới và trong nước; thực tế các giai cấp, thành phần lúc bấy giờ; các luận điểm cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin; công cuộc giải phóng dân tộc; … Những vấn đề đó đã được phân tích khá sâu sắc trong tác phẩm Các quyền tự do dân chủ với Nhân dân Đông Dương.

Để làm tiền đề cho các phân tích về sau, đồng chí giải thích một loạt các khái niệm và ý nghĩa của các phạm trù. Từ việc nêu ý nghĩa của tự do dân chủ, vấn đề thể chế hóa quyền tự do dân chủ, quan niệm cơ bản về quyền tự do dân chủ của một quốc gia dân tộc, khái niệm dân chủ tư sản, đồng chí đã phân tích thực tế vấn đề đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ của nhân dân Đông Dương. Hai đề mục quan trong được nêu ra trong phần đầu của cuốn sách là quyền tự do dân chủ của từng đối tượng cụ thể trong cộng đồng dân tộc - xã hội và tự do dân chủ trong tương quan với pháp luật.

Cách triển khai theo hình thức tổng - phân - hợp trong phần đầu của cuốn sách thể hiện tính chặt chẽ trong tư duy lý luận: từ vấn đề phổ quát về tự do dân chủ của con người đến từng đối tượng trong xã hội; dựa vào đó để phân tích quyền phải có tự do dân chủ của nhân dân Đông Dương và đi đến khái quát vấn đề tự do dân chủ với pháp luật. Để hình thành được khái niệm tự do làm tiền đề cho các phạm trù của dân chủ, đồng chí đã thấm nhuần Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và không ngừng nghiền ngẫm lý luận trong liên hệ với thực tiễn cách mạng. “Tự do là một vật quý báu tự nhiên của loài người dùng để phát triển các phương diện kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội loài người. Một xã hội mà không có tự do thì xã hội ấy phải lụi bại, phải tiêu diệt, để cho xã hội khác tự do hơn, tiến bộ hơn thế vào.

Một dân tộc mà không có tự do thì dân tộc ấy phải ngu hèn, phải kém cỏi, phải mất nước, mất nòi” [6]. Từ định nghĩa tự do, dân chủ và đi đến nêu ra ý nghĩa của tự do, dân chủ thực chất là cách kết hợp nói lên tính quy luật của hai phạm trù này cũng như sự cần thiết phải có một chính thể.

“Nói chung ý nghĩa của tự do dân chủ là một chính thể lấy nhân dân làm chủ, có chế độ nghị trường, về đường pháp luật nhân dân có quyền bình đẳng và dân chủ để bảo hộ quyền lợi cho các lớp nhân dân” [7].

Nêu ra vấn đề Thế nào là tự do dân chủ tư sản thực chất là để làm phản đề cho các phân tích về tầm quan trọng của tự do dân chủ với dân tộc ở phần thứ tư. “Các quyền tự do dân chủ là những điều yêu cầu chung cho toàn một dân tộc muốn sinh tồn, muốn phát triển, muốn tiến hóa, muốn giàu mạnh, đặc biệt là một dân tộc bị thống trị, lại càng cần thiết nữa, vì rằng toàn cả dân tộc, không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền phát biểu tư tưởng và ý kiến, không có quyền tín ngưỡng các thứ tư tưởng tiến bộ, không được phát triển những văn hóa mới trên vũ đài quốc tế, không được bỏ những giáo dục ngu dân, tẩy những phong tục tồi bại hèn hạ, không được phê bình chỉ trích những sự áp bức dã man của những kẻ cầm quyền thống trị dân tộc mình” [8].

Tinh thần tuyên truyền cho các tầng lớp của cuốn sách là phải đoàn kết và để có được tự do, dân chủ, chúng ta phải tranh đấu. Tinh thần đó không thể hiện một cách chung chung mà được tác giả phân tích, minh chứng rõ cho từng giai cấp, tầng lớp: tự do dân chủ với giai cấp tư sản, tự do dân chủ với giai cấp vô sản, tự do dân chủ với nông dân, và tự do dân chủ với tiểu tư sản.

Chính vì thế, có thể nói, cuốn sách Các quyền tự do dân chủ với Nhân dân Đông Dương không chỉ có giá trị lý luận, định hướng cách mạng mà còn là cuốn sách có giá trị tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội lúc bấy giờ. Cách mạng chỉ thành công khi chúng ta làm sao để mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhận thức được vai trò, quyền lợi, nhiệm vụ cụ thể của họ cũng như sự thống nhất ý chí, lập trường cách mạng của các giai cấp, tầng lớp trong một khối.

Những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ có một số bài lý luận đăng trên Báo Dân Chúng trong Phong trào dân chủ 1936 - 1939. Ảnh tư liệu.

Những giá trị lý luận mang ý nghĩa thời sự

Có một thực tế là, trong bất kỳ giai đoạn nào, để thực hiện thành công các mục tiêu cách mạng thì chúng ta phải nâng cao sức chiến đấu, lãnh đạo của Đảng. Để Đảng luôn thống nhất về tư tưởng và hành động, trong sạch, vững mạnh, chúng ta cần lấy công tác phê bình và tự phê bình làm nòng cốt trong xây dựng Đảng. Phê bình và tự phê bình thực chất là đấu tranh chống lại những tư tưởng, nhận thức sai trái nhằm giữ vững và phát huy đoàn kết trong Đảng.

Tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Nguyễn Văn Cừ ra mắt bạn đọc vào tháng 7/1939. Nếu như tác phẩm Các quyền tự do dân chủ với Nhân dân Đông Dương hướng đến phân tích bối cảnh, đối tượng, nhiệm vụ cách mạng thì tác phẩm Tự chỉ trích phân tích chủ thể nòng cốt của phong trào cách mạng.

Với bốn phần: Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng; Bài học về cuộc tuyển cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ; Đấu tranh về bảo vệ đường lối Mặt trận Dân chủ của Đảng chống tả khuynh và hữu khuynh; Tóm tắt đường lối chiến lược và sách lược của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tinh thần tự phê bình và phê bình mà đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu ra vẫn còn nguyên tính thời sự trong cuộc sống hôm nay đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Lấy phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng, những sự kiện trong thực tế, những yếu kém trong công tác tổ chức Đảng được đồng chí Nguyễn Văn Cừ phân tích một cách khách quan và truy tìm nguyên nhân sâu sắc.

Theo đồng chí, mục đích của Tự chỉ trích là “Để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiến thủ” [9]. Nội dung đấu tranh phê bình và tự phê bình, phương pháp phê bình cũng được đồng chí nêu ra một cách cụ thể và chi tiết. Đồng chí yêu cầu “Phê bình và tự phê bình phải tôn trọng sự thật, công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ bị địch lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ nối giáo cho giặc. Trái lại, nếu đóng kín cửa bảo nhau, giữ cái vỏ thống nhất bề ngoài mà bên trong thì hổ lốn một cục, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa…” [10].

Điểm tựa của phê bình và tự phê bình là lợi ích, công cuộc của dân chúng. Theo đồng chí, Đảng tiền phong cách mạng phải luôn luôn mạnh dạn, thẳng thắn đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng.

Các nội dung toát lên tính đảng, tính nguyên tắc, tính kiên định cách mạng, đạo đức trong phê bình và tự phê bình từ tác phẩm Tự chỉ trích cần được học tập, phổ biến một cách rộng rãi vì tính thời sự của những tính chất này. Nghĩa là, tác phẩm không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa thực tiễn mang tính thời sự ngày nay. Theo đó, cần nâng cao nhận thức về vai trò của phê bình và tự phê bình cho mọi cán bộ, đảng viên của Đảng.

Mặt khác, cần chấp hành nghiêm chỉnh chế độ, quy định về phê bình và tự phê bình. Xem phê bình và tự phê bình là công tác thường xuyên để củng cố sức mạnh, tính chiến đấu của Đảng. Bên cạnh đó, như đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nhận định, phải lấy quyền lợi của dân chúng làm điểm tựa cho phê bình và tự phê bình trong Đảng. Trong phê bình, chúng ta cần có sự tham gia đóng góp ý kiến của quần chúng nhân dân để đảm bảo công tác này được diễn ra một cách khách quan, đúng với tinh thần cách mạng của Đảng.

Ngày 13/5/1931, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị thực dân Pháp đưa ra xét xử tại Hội đồng đề hình Hà Nội. Khi Chánh án Tharaud hỏi “Anh làm nghề gì?”, đồng chí Nguyễn Văn Cừ thản nhiên trả lời “Tôi làm nghề cách mệnh!”. Khi Chánh án Tharaud nói “Cách mạng không phải là một nghề!” thì đồng chí Nguyễn Văn Cừ trả lời một cách khúc chiết: “Có phải là toà khép tôi vào tội có chân trong Đảng Cộng sản và âm mưu làm rối cuộc trị an chăng? Vì đâu mà tôi phải làm cách mệnh? Vì rằng bọn đế quốc quá áp bức quần chúng, tìm hết cách mà bóc lột, nào sưu thuế, nào quốc trái....

Còn bảo là “rối cuộc trị an” thì cuộc trị an ấy là do tư bản đặt ra để bảo vệ cho họ, chúng tôi là vô sản giai cấp thì phải phá cuộc trị an ấy” [11]. Câu trả lời đó thể hiện rõ tư thế của một người làm cách mạng luôn đề cao tính thực tiễn trong lý luận và lý luận phải xuất phát và gắn liền với thực tiễn.

Những giá trị lý luận trong sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ

Năm 2012, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ (9/7/1912- 9/7/2012), vở chèo “Tuổi trẻ Nguyễn Văn Cừ” được đạo diễn Hà Quốc Minh phục dựng lại và công diễn phục vụ khán giả. Thành công của vở chèo không chỉ là khắc họa được một hình tượng Nguyễn Văn Cừ quả cảm, hi sinh vì dân tộc mà còn ở chỗ đã đặt được hình tượng người anh hùng cách mạng trong bối cảnh lầm than của đất nước. Quả vậy, sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ luôn canh cánh về dân tộc, đất nước, nhân dân. Đó cũng là những giá trị cơ bản thể hiện trong sự nghiệp lý luận của người Cộng Sản viết hoa: một sự nghiệp lý luận đi từ thực tiễn và luôn gắn với thực tiễn.

[1] Trần Minh Trưởng (chủ biên). 2007. Nguyễn Văn Cừ - Tiểu sử, Nhà xuất bảnChính trị Quốc gia.

[2] Nguyễn Văn Hoan. Hồi ký, tài liệu viết tay, Viện Hồ Chí Minh.

[3] Viện Lịch sử Đảng. (2008). Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập I, II, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2000). Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, tr. 263.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2000). Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, tr. 508.

[6] Trí Thành. (1938). Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương. In trong Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, tr. 649. Nhà xuất bản. Chính trị Quốc gia.

[7] Trí Thành. (1938). Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương. In trong Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, Sđd, tr. 649.

[8] Trí Thành. (1938). Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương. In trong Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, Sđd. tr. 655.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2000), Tự chỉ trích, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 6, tr.620

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2000), Tự chỉ trích, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr.624.

[11] Báo Đông Pháp, số 1385, ra ngày 17-5-1931.

Chia sẻ
In bài viết

Tin cùng chuyên mục

Người đảng viên khơi dậy khát khao sáng tạo trong công nhân

Đảng với công nhân -

Người đảng viên khơi dậy khát khao sáng tạo trong công nhân

Gặp anh Nguyễn Thế Chuyền – công nhân tổ chế tạo, Công ty Cổ phần Công nghiệp Đông Hưng, huyện Đông Anh, TP Hà Nội, chúng tôi nhận thấy đằng sau vẻ bề ngoài điềm tĩnh là một trái tim say mê, hết lòng vì công việc.

Bình Phước: Thành lập chi bộ có 20 đảng viên tại doanh nghiệp FDI

Đảng với công nhân -

Bình Phước: Thành lập chi bộ có 20 đảng viên tại doanh nghiệp FDI

Ngày 12/9, Chi bộ Công ty TNHH Long Fa tại Khu công nghiệp Minh Hưng III, thị xã Chơn Thành được thành lập với 20 đảng viên.

Vào Đảng để thấy được trách nhiệm và cống hiến

Đảng với công nhân -

Vào Đảng để thấy được trách nhiệm và cống hiến

“Khi đứng dưới lá cờ Đảng và tuyên thệ, bản thân tôi cảm thấy rất vinh dự và hạnh phúc. Đảng đã cho tôi ý chí và nghị lực để không ngừng rèn luyện, tu dưỡng bản thân, để làm tốt công tác chăm lo đời sống cho anh chị em công nhân lao động” – đó là chia sẻ của đồng chí Lê Văn Đại, Phó Chủ tịch CĐCS Công ty TNHH Shyang Hung Cheng (Cụm sản xuất An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương).

Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới

Nghiên cứu -

Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.

Bình Phước: Chi bộ Đảng đầu tiên gồm 9 đảng viên thành lập trong khu công nghiệp

Đảng với công nhân -

Bình Phước: Chi bộ Đảng đầu tiên gồm 9 đảng viên thành lập trong khu công nghiệp

Ngày 28/8, Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh Bình Phước tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Chi bộ cơ sở Công ty TNHH Freewell, thuộc Khu công nghiệp (KCN) Bắc Đồng Phú. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên thành lập trong KCN.

Lòng kiên định vượt gian nan, dựng xây đời no ấm ở Chư Mom Ray

Đảng với công nhân -

Lòng kiên định vượt gian nan, dựng xây đời no ấm ở Chư Mom Ray

Từ một vùng rừng núi hoang vu vắng bóng người, dải đất biên giới từng là nơi “bom cày, đạn xới” ngày xưa, với sự lao động sáng tạo và lòng quả cảm, kiên định theo sự lãnh đạo của tổ chức Đảng lớp lớp cán bộ, công nhân Công ty Chư Mom Ray đã cải biến, dựng xây vùng đất hoang vu thành vùng quê xanh thẳm cao su, bạt ngàn hương trái, đời sống công nhân ấm no hơn…

Đặc biệt coi trọng quan hệ với Tổng Công hội Trung Quốc Video

Đặc biệt coi trọng quan hệ với Tổng Công hội Trung Quốc

Tổng LĐLĐ Việt Nam luôn coi trọng thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác với Công đoàn các nước, trong đó quan hệ với Tổng Công hội Trung Quốc đặc biệt được coi trọng tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã và đang phát triển hết sức tốt đẹp.

Đề xuất người lao động được nghỉ 9 ngày dịp Tết Nguyên đán 2025 Tôi công nhân

Đề xuất người lao động được nghỉ 9 ngày dịp Tết Nguyên đán 2025

Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, kỳ nghỉ Tết Nguyên đán 2025 có thể kéo dài 9 ngày, từ 26 tháng Chạp năm Giáp Thìn đến hết ngày mùng 5 tháng Giêng năm Ất Tỵ (tức 25/1-2/2/2025).

Talk Công đoàn: Đổi mới hiệu quả phải dựa trên nguyện vọng của người lao động Talk Công đoàn

Talk Công đoàn: Đổi mới hiệu quả phải dựa trên nguyện vọng của người lao động

Đồng chí Lê Thị Kim Huệ, Chủ tịch LĐLĐ quận Đống Đa, TP Hà Nội chia sẻ về những kinh nghiệm đổi mới hoạt động công đoàn, chăm lo thiết thực cho đoàn viên và người lao động.

5 nội dung phối hợp giữa Tổng LĐLĐ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam Infographic

5 nội dung phối hợp giữa Tổng LĐLĐ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam

Tổng LĐLĐ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam thống nhất phối hợp thực hiện 5 nội dung chính giai đoạn 2024 - 2030 với các nội dung sau:
Bản tin công nhân: Đề xuất miễn đóng bảo hiểm thất nghiệp sau 12 năm tham gia, chưa từng nhận Bản tin công nhân

Bản tin công nhân: Đề xuất miễn đóng bảo hiểm thất nghiệp sau 12 năm tham gia, chưa từng nhận

Bản tin công nhân ngày 29/5 gồm những tin chính: Trình Chính phủ tăng lương tối thiểu vùng 200.000 đồng – 280.000 đồng / tháng từ 1/7/2024; Điều chỉnh mức đóng BHXH sau cải cách tiền lương; Đề xuất miễn đóng bảo hiểm thất nghiệp sau 12 năm tham gia, chưa từng nhận; 14 phường ở TP Thủ Dầu Một có bếp ăn "0 đồng" cho lao động nghèo...

5 nội dung phối hợp giữa Tổng LĐLĐ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam Video

5 nội dung phối hợp giữa Tổng LĐLĐ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam

Đọc thêm

Từ người thợ dè dặt đến công nhân giỏi Thủ đô

Đảng với công nhân -

Từ người thợ dè dặt đến công nhân giỏi Thủ đô

Từ một người thợ dè dặt, sau khi vào Đảng, anh Đỗ Tuấn Tú, công nhân Công ty TNHH Bê tông đúc sẵn và Cơ khí Bình Dương (huyện Đông Anh, Hà Nội) tự tin hơn trong giao tiếp, công việc chuyên môn, có nhiều nỗ lực cống hiến hơn. Gần đây anh được tặng thưởng danh hiệu “Công nhân giỏi Thủ đô”.

Vào Đảng là động lực và để nghiêm khắc hơn với chính mình

Đảng với công nhân -

Vào Đảng là động lực và để nghiêm khắc hơn với chính mình

Không "đao to búa lớn", không hô hào suông, từ khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, anh Nguyễn Tiến Long (công ty TNHH Cơ Nhiệt Điện lạnh Bách khoa) luôn cống hiến cho công ty bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả, góp phần cải thiện đời sống người lao động.

Gặp người đảng viên công nhân từng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối thoại cởi mở

Đảng với công nhân -

Gặp người đảng viên công nhân từng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối thoại cởi mở

Vào Đảng khi 27 tuổi, là công nhân làm việc trong ngành mỏ có nhiều cống hiến, từng nhận được nhiều danh hiệu, nhưng với anh Đoàn Văn Lý (SN 1983), công nhân Công ty Cổ phần Than Hà Tu (Quảng Ninh) thì cuộc gặp và được đối thoại cởi mở với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cách nay 11 năm, lại có ý nghĩa quan trọng, là động lực lớn lao để anh nỗ lực cống hiến, trở thành một trong những đảng viên công nhân tiêu biểu trong ngành than.

“Vào Đảng để phát huy tinh thần “Rạng Đông anh hùng có Bác Hồ”

Đảng với công nhân -

“Vào Đảng để phát huy tinh thần “Rạng Đông anh hùng có Bác Hồ”

Từ ngày vào làm việc tại Công ty Cổ phần Bóng đèn – Phích nước Rạng Đông, anh Nguyễn Văn Tuấn (SN 1990 tại Mỹ Đức, Hà Nội) luôn tự hào về khẩu hiệu “Rạng Đông anh hùng có Bác Hồ” và đó cũng là lý do anh khao khát được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

“Là công nhân thì làm gì, ở đâu cũng hết lòng, dốc sức”

Đảng với công nhân -

“Là công nhân thì làm gì, ở đâu cũng hết lòng, dốc sức”

“Từ những ngày đầu chưa biết gì về cây cao su, tôi luôn chăm chỉ học hỏi từ cán bộ kỹ thuật của công ty. Trong vùng, vườn cây khu vực nào tốt, năng suất mủ cao tôi đều tìm đến để học hỏi. Tôi nghĩ rằng, bất cứ nghề nghiệp gì mình cũng phải học hỏi từ nhiều người và mỗi ngày luôn cố gắng để trở thành người làm việc có chất lượng”.

Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

Đảng với công nhân -

Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW (ngày 9/5/2024) Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới (Quy định số 144).

Tự hào khi là đảng viên trưởng thành từ lao động sản xuất

Đảng với công nhân -

Tự hào khi là đảng viên trưởng thành từ lao động sản xuất

Không chỉ tận tâm, nhiệt huyết với nghề, chị Thi còn là một đảng viên tiêu biểu được mọi người quý mến. Đến nay, chị đã có nhiều sáng kiến hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, được lãnh đạo công ty và đồng nghiệp công nhận, đánh giá rất cao…

Phát hiện, xây dựng những điển hình, nhân tố phát triển Đảng

Đảng với công nhân -

Phát hiện, xây dựng những điển hình, nhân tố phát triển Đảng

Làm thế nào để công đoàn vận động, tuyên truyền, lựa chọn được đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng; công nhân vào Đảng sẽ có những quyền lợi gì?

Đồng chí Hoàng Đình Giong với việc xây dựng, củng cố phong trào công nhân

Đảng với công nhân -

Đồng chí Hoàng Đình Giong với việc xây dựng, củng cố phong trào công nhân

Nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Hoàng Đình Giong (1/6/1904 - 1/6/2024), nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ những năm 30 của thế kỷ trước, chiều 31/5, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Đồng chí Hoàng Đình Giong - Nhà lãnh đạo kiên trung, tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam”. Tạp chí Lao động và Công đoàn xin trân trọng giới thiệu bài viết “Đồng chí Hoàng Đình Giong với việc xây dựng, củng cố phong trào công nhân ở khu mỏ Quảng Ninh” của PGS.TS Nguyễn Thị Kim Dung, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Bài 1: Tình hình việc làm của người lao động trong bối cảnh hiện nay

Đảng với công nhân -

Bài 1: Tình hình việc làm của người lao động trong bối cảnh hiện nay

Mặc dù đạt được những tiến bộ đáng kể, nhưng vấn đề việc làm, bảo đảm việc làm, cải thiện điều kiện lao động ở Việt Nam vẫn cần được chú trọng.