Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển văn hóa
Nghiên cứu - 04/06/2021 15:00 Trần Quốc Dân
Đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ tăng cường nguồn lao động sáng tạo nội sinh của văn hóa dân tộc mà còn để nâng cao năng lực làm chủ công nghệ và tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại. Nguồn: tapchitaichinh.vn |
1. Sự cần thiết phải nâng cao CLNNL và PTVH
CLNNL là khả năng tổng hợp về thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách, đặc điểm lối sống, tinh thần và đặc biệt là khả năng nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới, tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới trong quá trình lao động, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố con người luôn đóng vai trò trung tâm của mọi quá trình phát triển. PTVH để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa và con người Việt Nam, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC), thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Yêu cầu nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Trong công cuộc cải biến xã hội vô cùng sâu sắc này, nguồn NNLCLC là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có NNLCLC đáp ứng.
NNLCLC có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Nguồn: vietnamplus.vn |
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đất nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Yêu cầu nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Trong công cuộc cải biến xã hội vô cùng sâu sắc này, nguồn NNLCLC là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có NNLCLC đáp ứng. NNLCLC sẽ bảo đảm rút ngắn thời gian thực hiện CNH, HĐH đất nước. Nước ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh của một nước nông nghiệp, nếu không có NNLCLC thì không thể thực hiện những bước nhảy vọt, đi tắt đón đầu. NNLCLC cũng là điều kiện cho việc phát triển nền kinh tế tri thức. Chỉ có NNLCLC mới bảo đảm cho những mục tiêu phát triển, trong đó có mục tiêu phát triển nền kinh tế tri thức.
NNLCLC cũng bảo đảm cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nền kinh tế phát triển bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp. Vì vậy, NNLCLC là một trong những nhân tố quan trọng nhất xác định năng lực cạnh tranh quốc gia, bởi nó có vai trò quyết định trong việc khai thác, sử dụng, bảo vệ, tái tạo các nguồn lực khác.
Nâng cao CLNNL có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Ảnh: Thiên Lý |
2. PTVH góp phần nâng cao CLNNL
Văn hóa do con người sáng tạo ra. Trong đời sống xã hội, văn hóa vừa phản ánh hiện thực của con người, vừa thúc đẩy sự phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và sâu sắc thêm các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội. Văn hóa thúc đẩy sự phát triển đồng thời là kết quả của phát triển, là thước đo sự phát triển con người và xã hội.
Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Dưới góc độ văn hóa, đi sâu nghiên cứu vào CLNNL với tư cách là động lực sáng tạo con người, có thể thấy động cơ thúc đẩy hoạt động sáng tạo là năng lực văn hóa của con người, từ đó càng thấy PTVH có vai trò quan trọng trong việc nâng cao CLNNL. Có thể thấy tác động của PTVH đến CLNNL được biểu hiện trên các phương diện sau:
Một là, PTVH văn hóa luôn đi đôi, gắn chặt với con người, PTVH và con người là nhiệm vụ không thể tách rời; PTVH với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Toàn bộ các giá trị sáng tạo thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, phương thức sống và hoạt động, tính nhân văn của con người, hợp thành nền tảng tinh thần để bảo đảm cho một xã hội phát triển hài hòa, cân đối, bền vững.
PTVH góp phần nâng cao CLNNL. Ảnh: Nhật Nam |
Hai là, PTVH tạo điều kiện hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Ba là, PTVH tạo điều kiện để văn hóa thẫm đẫm trong toàn xã hội, trong từng cơ quan, tổ chức, hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội.
Bốn là, PTVH tạo điều kiện chủ động giao lưu văn hóa quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh thần của nền văn minh nhân loại; đồng thời, phòng ngừa những xu hướng lai căng, xa rời giá trị truyền thống, bảo đảm xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Năm là, PTVH tạo điều kiện củng cố và nâng cao tinh thần đại đoàn kết, nhận thức của toàn dân về ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí phục hưng dân tộc, truyền thống văn hóa, tính tích cực xã hội, hình thành nếp sống văn minh, tác phong công nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tôn trọng con người, quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.
PTVH để hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn. Nguồn: bing.com |
Sáu là, PTVH tạo điều kiện cho sự phát triển trình độ hệ thống giáo dục kể cả bề rộng và chiều sâu. Sự phát triển bao trùm của hệ thống giáo dục sẽ bảo đảm điều kiện để mỗi người dân thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục; tạo ra năng lực thu hút nhiều người học, xây dựng xã hội học tập mở, học tập suốt đời, thúc đẩy NNLCLC tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Sự phát triển chiều sâu của hệ thống giáo dục tác động mạnh đến yếu tố CLNNL. Trình độ phát triển của hệ thống giáo dục càng cao thì CLNNL được đào tạo cũng càng cao.
Bảy là, PTVH tạo điều kiện cho quá trình tiếp nhận, sử dụng, phát huy NNLCLC hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, đất nước nào sử dụng được NNLCLC có hiệu quả thì quốc gia đó phát triển tốt và ngược lại. Như vậy, PTVH sẽ phát huy cao độ tố chất sáng tạo của NNLCLC, đó vừa là động cơ, vừa là mục tiêu của quá trình sử dụng NNLCLC.
3. Kết luận
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam là nước đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, thì việc tập trung nâng cao CLNNL đủ khả năng thích ứng và sáng tạo trong điều kiện hiện nay là giải pháp quan trọng. Đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ tăng cường nguồn lao động sáng tạo nội sinh của văn hóa dân tộc mà còn để nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, sức cạnh tranh và tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại.
PTVH thu hút nhiều người học, xây dựng xã hội học tập mở, học tập suốt đời, thúc đẩy NNLCLC tăng nhanh về số lượng và chất lượng. Nguồn: baophutho.vn |
Những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng cao đẹp, phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, giản dị trong lối sống… chính là cơ sở phát triển NNLCLC đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ta phải PTVH để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa và con người Việt Nam. Hình thành NNLCLC, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ sẽ tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2014.
3. PGS. TS. Vũ Văn Phúc - TS. Nguyễn Duy Hùng: Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, Nxb CTQG - Sự thật, HN, 2012.
Bắc Giang: Ranh giới bệnh nhân Covid-19 ở mức độ vừa phải tới nguy kịch rất nhanh “Đợt dịch ở Đà Nẵng, bệnh nhân nặng chủ yếu đều lớn tuổi và có nhiều bệnh nền, nhưng ở Bắc Giang, bệnh nhân nặng ... |
1000 tỷ của hai nữ đại gia Phương Hằng- Lê Thị Giàu! Bà chủ Đại Nam- CEO Nguyễn Phương Hằng, người nổi tiếng với câu “đồ không có 1000 tỷ” cùng những phát ngôn đình đám khác ... |
“Ở nhà với ngoại ngoan, mẹ đi rồi sẽ về” Đó là lời dặn dò của Võ Thị Hoài Thương, khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Đà Nẵng với con khi chị gửi về ... |
Tin cùng chuyên mục
Công đoàn - 19/09/2024 16:13
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng
Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu - 09/09/2024 13:38
Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Nghiên cứu - 21/06/2024 16:35
Tình đoàn kết tạo ra quyền lực cho tổ chức
Nhân Tháng Công nhân 2024, TS. Phạm Thị Thu Lan, nhà nghiên cứu quen biết về phong trào công nhân, hoạt động công đoàn (công tác tại Viện Công nhân và Công đoàn) có bài viết về tình đoàn kết và niềm tin của NLĐ, điều sẽ tạo ra quyền lực mềm cho tổ chức Công đoàn. Tạp chí LĐ&CĐ xin giới thiệu với bạn đọc phân tích thú vị và rất đáng suy ngẫm này.
Nghiên cứu - 28/05/2024 15:33
Bài 3: Xây dựng chính sách đồng bộ, hiệu quả cho người lao động tiếp cận, thụ hưởng
Hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm ở nước ta đã được chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhưng vấn đề tiếp cận, thụ hưởng chính sách của người lao động còn cần được cải thiện hơn nữa.
Nghiên cứu - 28/05/2024 14:54
Bài 2: Cơ sở xây dựng lực lượng lao động năng suất, tiến bộ
Cơ sở để bảo đảm việc làm, thu nhập, chăm lo đời sống, đáp ứng nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người lao động (NLĐ) xuất phát từ các tiền đề về tiền lương, phúc lợi về nhà ở, sức khỏe y tế, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, hỗ trợ chăm sóc con em.
Nghiên cứu - 28/05/2024 10:28
Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay
Với sự nỗ lực, tự học hỏi, rèn luyện, công nhân đã có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp khá cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.